Cá tra, basa Các bệnh thường gặp ở cá tra, cá basa nuôi ở Việt Nam
Sản phẩm khuyên dùng
Máy thổi khí AT thiết kế nhỏ gọn, lưu lượng khí lớn, áp suất mạnh. Phù hợp để lắp đặt sục khí ao nuôi tôm, trại giống, ương tôm, nuôi tôm nhà màng …
Sản phẩm khuyên dùng
Tima - Tủ điều khiển ứng dụng mạng không dây LoRa. Tima sử dụng giao thức truyền dữ liệu không dây tầm xa LoRa điều khiển thiết bị như máy bơm nước, động cơ điện…
Sản phẩm khuyên dùng
Chúng tôi tự hào giới thiệu Ống thông khí Nano-Tube bọt khí mịn, oxy hoà tan cao, cải tiến quan trọng để khuếch tán oxy hoà tan trong nước phục vụ nuôi tôm công nghệ cao.

Các bệnh thường gặp ở cá tra, cá basa nuôi ở Việt Nam

Author 2LUA.VN biên dịch, publish date Saturday. October 17th, 2020

Các bệnh thường gặp ở cá tra, cá basa nuôi ở Việt Nam

Nhiễm trùng do vi khuẩn và ký sinh trùng là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu

Dấu hiệu lâm sàng khi bị nhiễm vi khuẩn Edwardsiella ictaluri ở cá tra là xuất hiện nhiều đốm trắng trên thận, lá lách và gan.

Cá tra nuôi (Pangasius hypophthalmus) là loài cá bản địa đang có nhu cầu cao từ phía người tiêu dùng trên toàn cầu. Văn hóa thương mại cá tra ở Việt Nam giúp cải thiện tình trạng kinh tế xã hội cho hàng nghìn nhà sản xuất của Việt Nam.

Cũng như trong các dự án nuôi trồng thủy sản đang phát triển khác đều gặp phải các vấn đề sức khỏe bao gồm bùng phát dịch bệnh do ký sinh trùng và vi khuẩn. Đối với cá tra, các vấn đề bệnh tật nghiêm trọng nhất là bệnh do vi khuẩn (Edwardsiella ictaluri), (Aeromonas hydrophila), (A. sobria) và (A. caviae) gây ra.

Những loại ký sinh trùng đơn bào bị mắc phải bao gồm các sinh vật thuộc các chi (Microsporidium), (Myxobolus), (Henneguya), (Trypanosoma), (Ichthyonyctus), (Trichodina), (Balantidium) và (Epistylis), cũng như IIchthyophthirius multifiliis). Một số ký sinh trùng đơn bào và các vấn đề không lây nhiễm cũng đã được báo cáo.

Các bệnh truyền nhiễm

Tình trạng vi khuẩn

Bệnh hoại tử do trực khuẩn gây ra ở cá tra. Bệnh hoại tử trực khuẩn ở cá tra (BNP) là một bệnh nhiễm khuẩn nghiêm trọng và ảnh hưởng nghiêm trọng về phương diện kinh tế do vi khuẩn E. ictaluri gây ra. Bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi của cá, mặc dù tỷ lệ tử vong cao được báo cáo ở giai đoạn cá giống và cá con. Các đợt bùng phát làm giảm sản lượng và tăng chi phí cho việc điều trị và tỷ lệ cá tử vong cao.

BNP biểu hiện ít dấu hiệu bên ngoài khi mới bắt đầu bị nhiễm trùng. Các dấu hiệu lâm sàng được bắt gặp ngay trước khi cá chết. Cá bơi chậm trên mặt nước, lúc khám thấy biểu hiện da và mang cá có màu nhợt nhạt, bên trong gan, thận và lá lách thì có đốm trắng.

Bệnh đạt đỉnh điểm vào mùa mưa, lúc nhiệt độ xuống dưới 28 độ C. Nhìn chung, sự đông đúc, xáo trộn và các điều kiện khí hậu bất lợi được coi là những yếu tố rủi ro gây ra sự phát triển và lây lan của BNP. Ngày nay, căn bệnh này lan rộng ở đồng bằng sông Cửu Long Việt Nam và khó lòng tránh khỏi.

Việc điều trị bất cẩn đã không may dẫn đến tình trạng kháng thuốc ở vi khuẩn E. ictaluri được xử lý bằng oxytetracycline hoặc sulfonamides. Cần có những nghiên cứu sâu hơn nữa để xác định tình trạng kháng thuốc và chuyển gen kháng kháng sinh di động về mặt di truyền trong môi trường chăn nuôi cá tra. Để kiểm soát căn bệnh này, cần nghiên cứu sâu hơn nữa về cơ chế phát sinh bệnh và dịch tễ học của nó, đồng thời cần điều chế vắc-xin chống lại vi khuẩn E. ictaluri.

Bệnh đốm đỏ. Đối với cá bị bệnh đốm đỏ, có một nhóm các loài Aeromonas di động (Aeromonas hydrophila, A. sobria và A. caviae) gây ra bệnh nhiễm trùng huyết nói chung. Các dấu hiệu lâm sàng tổng thể có liên quan đến tình trạng này là sự xuất hiện của các nốt xuất huyết trên đầu, miệng và hốc vây; lỗ huyệt sưng đỏ; và dịch cổ trướng màu hồng vàng. Đôi khi có thể quan sát thấy khí trong đường ruột.

Sự lây nhiễm này thường xảy ra vào thời điểm giao mùa từ mùa khô sang mùa mưa, đặc biệt là trong giai đoạn cá bị căng thẳng trong quá trình xử lý và vận chuyển. Giảm mật độ thả và duy trì quản lý sức khỏe chất lượng cao có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc phải các bệnh do vi khuẩn gây ra như thế này ở cá giống và cá thương phẩm trong ao.

Nhiễm khuẩn Aeromonas ở cá tra, cá basa gây ra các nốt xuất huyết trên đầu, quanh miệng và hốc vây. Bụng thường phình to ra, có nhiều dịch màu hồng vàng.

Ký sinh trùng

Monogenea. Nhóm Monogenea bao gồm một số ký sinh trùng ở mang và da thuộc (Thaparocleidus). Chúng gây ra các triệu chứng mắc bệnh theo mùa, với các bệnh nhiễm trùng nặng ở cả cá tra nuôi trong ao và cá tra nuôi trong lồng vào mùa mưa hoặc vào những lúc thời tiết mát mẻ hơn.

Các dấu hiệu của bệnh bao gồm cá bơi chậm trên mặt nước, tiết chất nhầy để cố gắng loại bỏ ký sinh trùng và hai mang nhợt nhạt, sưng tấy. Cá bị nhiễm bệnh có triệu chứng giảm cảm giác thèm ăn và do đó cá trở nên yếu ớt và dễ bị nhiễm vi khuẩn. Các đợt bùng phát lẻ tẻ có thể xảy ra với tỷ lệ tử vong thấp. Điều trị bằng formalin có hiệu quả.

Myxobolus endoparasites có thể được quan sát thấy ở các cơ quan bên trong hoặc các cơ quan bên ngoài. Dấu hiệu xuất hiện vi khuẩn này bao gồm các nang màu trắng có chứa bào tử (chóp nhọn) trong thận và mang.

Các loài Trichodina và Epistylis (những loài ký sinh phổ biến nhất ở cá tra, cá basa) gây nhiễm trùng nặng dẫn đến tử vong ở giai đoạn ương giống. Nhiễm trùng có thể được quan sát thấy quanh năm nhưng biểu hiện nặng nhất khi điều kiện khí hậu không ổn định, chẳng hạn như sau khi mưa như trút nước rồi tới giai đoạn nắng hạn. Ký sinh trùng bắt gặp nhiều nhất ở các ao có mật độ thả cao và chất lượng nước kém.

Các triệu chứng đầu tiên của nhiễm trùng bao gồm khó thở kèm theo chán ăn, da có màu sẫm nhưng màu mang nhợt nhạt, cá bơi lên bề mặt nước, thoắt ẩn thoắt hiện hoặc di chuyển qua cây cối và trong trường hợp nghiêm trọng thì vây cá bị ăn mòn. Đồng sulphat hoặc formalin có thể được sử dụng để điều trị. Nói chung, khử trùng là một cách hiệu quả để kiểm soát ký sinh trùng.

Bệnh đốm trắng. Bệnh đốm trắng do động vật nguyên sinh có lông mao Ichthyophthirius multifiliis gây ra. Cá con bơi chậm và tỷ lệ tử vong cao trong vòng 5 đến 7 ngày khi nhiệt độ nước từ 25 đến 28 độ C. Dấu hiệu lâm sàng là những đốm trắng nhỏ hơn 1 mm trên da và mang. Loại ký sinh trùng này rất khó điều trị.

Sinh vật nội ký sinh

Vi khuẩn vi bào Microsporidians. Microsporidians gây bệnh bằng cách ký sinh nội bào bắt buộc. Đôi khi, chúng xâm nhập vào cơ và nội tạng của cá tra nuôi. Mặc dù microsporidians không được coi là ký sinh trùng nguy hiểm đối với cá da trơn nhưng sự hiện diện của một số loài nhất định có thể làm giảm đáng kể chất lượng và sức hấp dẫn của thịt phi lê.

Ký sinh trùng Myxobolus, Henneguya. Các loài (Myxobolus) và (Henneguya) thuộc bộ Myxozoa và thường được tìm thấy trên cá tra, cá basa. Các nang màu trắng có chứa bào tử có thể được nhìn thấy trên các cơ quan bên trong hoặc các cơ quan bên ngoài với các chổ bị nhiễm trùng đáng chú ý ở thận và mang. Nhiễm trùng đang lan rộng, nhưng lại không có cách điều trị hiệu quả. Bệnh có thể được kiểm soát bằng cách phơi khô và bón vôi vào ao để loại bỏ các vật chủ trung gian oligochaete.

Bệnh ngủ Châu Phi do ký sinh trùng Trypanosoma. Trùng roi ký sinh trong máu của loài Trypanosoma thường được tìm thấy ở cá tra nuôi trong trang trại. Nhiễm trùng trùng roi không tạo ra bất kỳ thay đổi bệnh lý rõ ràng nào ở cá và do đó có khả năng gây bệnh không xác định được.

Bệnh do nhiễm trùng lông - ký sinh trùng lông Balantidium, Ichthyonyctus. Các loài Balantidium và Ichthyonyctus là các động vật nguyên sinh ciliate được tìm thấy trong ruột già và ruột non của cá tra con và cá tra trưởng thành. Cơ chế phát sinh bệnh của các sinh vật ở cá tra vẫn chưa được biết rõ. Chưa có liệu pháp nào được áp dụng.

Một số ký sinh trùng đường ruột đã được tìm thấy trong ruột hoặc có liên quan chặt chẽ với ruột của cá tra, bao gồm cả giun tròn và digeneans. Tuy nhiên, cần phải nghiên cứu thêm nữa để xác định những điều này một cách đầy đủ hơn.

Các dấu hiệu của hội chứng phi lê thịt vàng ở cá tra bao gồm sự đổi màu của thịt phi lê, mang có màu vàng nhợt nhạt, gan xanh nâu vàng và lá lách sẫm màu. Trong khoang cơ thể thường bắt gặp chất dịch màu vàng.

Bệnh không truyền nhiễm

Hội chứng phi lê đỏ. Hội chứng phi lê đỏ ảnh hưởng đến cá da trơn trưởng thành. Nó thường được xác định bằng các đốm đỏ ở miếng thịt phi lê gồm các nốt xuất huyết nhỏ. Cá bị ảnh hưởng bởi hội chứng này không thể bán được vì chúng bị các nhà chế biến đánh giá là có chất lượng kém. Các đốm đỏ biến mất nếu giảm hoặc ngưng khẩu phần thức ăn trong ít nhất một tuần và chất lượng nước được cải thiện, đề xuất vấn đề có liên quan đến môi trường và/hoặc vấn đề có liên quan đến thức ăn. Không có tác nhân gây bệnh nào được phát hiện từ các mẫu mô học.

Hội chứng phi lê thịt vàng. Hội chứng phi lê thịt vàng thường được quan sát thấy ở cá tra nuôi trưởng thành trong gian đoạn lũ lụt. Mặc dù không có mầm bệnh nào được tìm thấy có liên quan đến bệnh lý, nhưng hội chứng này thường được quan sát thấy có liên quan đến các sinh vật ký sinh bên ngoài khác và những con cá này có thể trở nên dễ bị nhiễm vi khuẩn.

Các dấu hiệu lâm sàng chung là thiếu máu, sụt cân, cổ trướng và miếng phi lê chuyển màu hơi vàng. Theo dõi nồng độ ôxy hòa tan nhiều lần trong một ngày và suốt đêm là việc làm thường ngày ở tất cả các ao. Sử dụng máy sục khí cơ học có máy phun bơm, bánh guồng lớn và hệ thống khuếch tán không khí (phổ biến trong mùa lũ ở các ao nuôi thả nhiều) để làm giảm vấn đề.


Sản phẩm khuyên dùng
Máy thổi khí AT-80 đang rất được ưa chuộng hiện nay trên thị trường, lưu lượng khí lớn, hoạt động mạnh mẽ.
Sản phẩm khuyên dùng
Tima - Tủ điều khiển ứng dụng mạng không dây LoRa. Tima sử dụng giao thức truyền dữ liệu không dây tầm xa LoRa điều khiển thiết bị như máy bơm nước, động cơ điện…
Lá lựu tăng cường kháng gan thận mủ Lá lựu tăng cường kháng… Mật độ và kích cỡ phiêu sinh vật quyết định tỉ lệ sống cá tra bột Mật độ và kích cỡ…